Trích đoạn trong tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng
Chánh niệm bừng tỏ nơi ông như một mặt trời. Đem mặt trời chánh niệm ấy soi vào lòng của các hiện tượng tâm lý kia, ông thấy rằng bản chất của chúng đều là sự u mê. Tên nó là vô minh. Tên nó là mờ ám. Tên nó là sự thiếu sáng suốt. Chìa khóa của giải thoát vì vậy là sự đập tan u mê, là thể nhập vào lòng của thực tại để có một cái biết trực tiếp và chân thực về thực tại. Cái biết này không phải là cái biết của trí thức suy luận. Cái biết này là phải là cái biết trực tiếp của kinh nghiệm, của thực chứng.
Ngày xưa, Siddhatta đã tìm đủ cách để chế ngự sợ hãi, chế ngự giận dữ, chế ngự tham đắm, nhưng những phương cách ấy không có hiệu quả, vì chúng chỉ là sự đè nén và đàn áp. Ngày nay Siddhatta biết được bản chất của chúng là u mê: giải tỏa u mê và đi tới sự hiểu biết, tức là làm cho chúng tự tan rã, như khi mặt trời lên thì tự khắc bóng tối tan biến. Sự hiểu biết này là kết quả của công trình quán chiếu. Giải thoát không phải là kết quả của một sự lẫn tránh thực tại, giải thoát trái lại là hiểu biết được tự thân của thực tại để đạt tới tự do, để cắt đứt mọi sợi dây khống chế.
Sa môn Gotama mỉm cưòi. Ông thấy một chiếc lá Pippala in trên nền trời xanh, đuôi lá hướng về phía đất và phe phẩy như đang gọi ông. Chiếc lá này một thực tại mầu nhiệm. Nhìn chiếc lá ông thấy mặt trời và trăng sao. Nếu không có mặt trời, nếu không có ánh sáng và sức nóng, chiếc lá không thể nào có mặt. Cái này có vì cái kia có. Ông lại thấy một đám mây bay lửng lơ trong lòng chiếc lá. Nếu không có đám mây thì không có mưa và nếu không có mưa thì không làm gì có chiếc lá. Ông thấy đại địa. Ông thấy thời gian. Ông thấy không gian. Ông thấy tâm thức. Tất cả đều đang có mặt trong chiếc lá. Vũ trụ có mặt trong chiếc lá và với chiếc lá. Điạ, thủy, hỏa, phong, không thời, phương, thức, tất cả đều có mặt với chiếc lá trong giờ phút này.
Cái này có thì cái kia có, và ông thấy thực tại của chiếc lá cùng thực tại của bản thân ông là một. Chiếc lá dường như chỉ mới có mặt từ đầu mùa Xuân năm nay, nhưng thật ra chiếc lá đã có mặt không biết tự bao giờ. Trong ánh nắng đã có sẵn chiếc lá. Trong đám mây bay đã có sẵn chiếc lá. Trong cây đã có sẵn chiếc lá, và trong Siddhatta, đã có sẵn chiếc lá. Chiếc lá thực ra chưa từng bao giờ sinh, chiếc lá chỉ được biểu hiện ra mà thôi. Sa môn Siddhatta cũng chưa bao giờ từng sinh, sa môn Siddhatta cũng chỉ được hiểu hiện. Những ý niệm sinh diệt và con mất là những ý niệm phát xuất từ nhận thức sai lầm, từ vô minh. Tự thân của chiếc lá Pippala cũng như tự thân của sa môn Gotama chưa từng bao giờ sinh diệt. Sự có mặt của một hiện tượng kéo theo sự có mặt của tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ. Cái một bao hàm tất cả, và cái tất cả được có mặt trong cái một.
Chiếc lá không có cá thể biệt lập, không có một cái ngã thường tại bất biến. Sa môn Gotama cũng vậy, ông không thể có mặt biệt lập với vũ trụ vạn hữu, ông không có một cái ngã thường tại bất biến. Thấy được tính cách trùng trùng duyên khởi của vạn hữu cũng là đồng thời chứng nghiệm được sâu xa tính cách vô ngã của vạn hữu. Và vì vậy chìa khóa mở cánh cửa giải thoát là nguyên lý vô ngã, nguyên lý duyên sinh.
Một đám mây trắng bay qua, và chiếc lá Pippala giờ đây đang in hình trên nền trắng ấy. Đám mây kia chiều nay có thể sẽ gặp một luồng khí lạnh và sẽ biến thành mưa. Đám mây là một biểu hiện, mưa là một biểu hiện. Tự thân của đám mây không có sinh diệt và còn mất. Nếu đám mây biết điều đó thì khi cần được biến thành mưa, đám mây sẽ ca hát khi rơi xuống thành giọt trên núi rừng, trên ruộng lúa. Sa môn Gotama thấy được rằng trong thực tại, không có gì sinh ra, không có gì mất đi, không có gì từ không mà trở nên có, không có gì từ có mà trở nên không, và ông vượt thoát được các ý niệm có không và sinh diệt.
Sa môn Gotama lấy cái thấy này và soi chiếu lại vào những dòng sông cơ thể, cảm thọ, tri giác, tâm tư và nhận thức của con người. Ông thấy hầu hết những khổ đau của con người đều được phát xuất từ nhận thức sai lầm của con người. Nếu con người thấy được tính cách vô thường vô ngã của thực tại thì con người giải thoát được khổ đau. Vô thường và vô ngã là điều kiện tất yếu của sự sống; nếu không có vô thường và vô ngã thì không có biến chuyển sinh diệt, vì vậy không có gì có thể sinh trưởng và phát triển. Hạt lúa nếu không có vô thường và vô ngã thì không thể mọc thành cây lúa. Đám mây nếu không vô thường và vô ngã thì không thể nào biến thành cơn mưa. Em bé nếu không có vô thường và vô ngã thì không thể lớn lên. Vì vậy chấp nhận sự sống tức là chấp nhận vô thường và vô ngã. Khổ đau bắt nguồn từ sự nhận thức vô thường là thường, và vô ngã là là ngã. Chứng nhập được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn hữu là thoát ra được vòng khổ đau.
Sa môn Gotama thấy rằng một khi đã chứng nhập được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn hữu thì tự tánh không của vạn hữu cũng bắt đầu hiển lộ. Không tức là không sinh cũng không diệt, không có cũng không không, không một cũng không nhiều, không trong cũng không ngoài, không lớn cũng không nhỏ, không nhơ cũng không sạch ... Tất cả những ý niệm về không và có, sinh và diệt, một và nhiều, trong và ngoài, lớn và nhỏ, nhơ và sạch ... đều do những khuôn khổ hẹp hòi của tri giác tạo nên. Thâm nhập được vào thể tính không của vạn pháp, Siddhatta vượt lên trên của tất cả mọi phạm trù ấy của tri giác.
HT Nhất Hạnh