Thưở nhỏ, chàng tự ý lìa bỏ gia đình xin xuất gia trong giáo phái Ni Kiền Tử (Phái lõa thể của ngoại đạo). Chàng ở lâu trong sơn lâm, luyến ái sơn lâm nên đạo hạnh của chàng cũng được nhiều người nghe tiếng; nhưng thực chất chàng không có gì, chưa có đường chân chánh để đi, chưa có ánh sáng để tới. Chàng đi khất thực, trở lại ngôi rừng thân ái của mình để thiền định, nhưng tâm cứ như vượn hoang, như thú núi, nay rong chơi chỗ này, mai leo chuyền chỗ khác. Thỉnh thoảng, chàng muốn thay đổi không khí, tạm biệt chỗ cư ngụ, vân du lang thang đây đó vài ba ngày, rồi lại trở về để “thanh tịnh khất thực, thanh tịnh thiền định”. Dung mạo cử chỉ, thái độ bên ngoài rõ là bậc đại Ẩn sĩ nên người ta đồn đại với nhau rằng đấy là vị A La Hán.
Ven khu rừng có một xóm làng bé nhỏ, mọi người tín mộ chàng. Và gia đình người thợ săn kia thường trực để bát cho chàng, bất cứ lúc nào Đạo sĩ Mắt Đen ấy đi qua.
Hôm nọ sau cuộc vân du trở về, trên đường ngược chiều, upaka thấy một sa môn trẻ tuổi. Chàng dừng sững lại. Sa Môn kia không to lớn lắm, chẳng phải gầy, chẳng phải mập, mà đầy đặn. Y áo chẳng phải cũ, chẳng phải mới nhưng thanh sang và hài hoà. Tất cả nơi ông Sa Môn đều toát ra cái vừa phải, cái chừng mục nhưng đẹp và gợi cảm một cách lạ lung. Upaka bước tới rồi bước lui, nhìn ngắm mê mải, ngạc nhiên. Có một thứ ánh sáng sáu màu khi đậm, khi nhạt, khi loang rộng như túa hẳn ra, lung linh, chập chờn rồi yên lặng, phẳng lặng như mặt nước hồ thu không gợn sóng. Đến gần hơn tí nữa thì chàng hoàn toàn bi nhiếp phục ởi sự trầm tịnh, ổn định, an lạc toát ra từ đôi mắt, từ bước đi. Có một sự khôn ngoan vượt ngoài thế giới, sự minh triết sáng ngời, một trí tuệ siêu đẳng ẩn ở đâu đó, không chỉ nơi vùng trán bát ngát, mà còn có thể ở cả nơi từng sợi tóc, lông mi, từ ngón tay, lóng tay và cả ngón chân nữa… “Chàng này, vị Sa Môn trẻ tuổi đẹp trai này chắc hẳn không phải là người, là … Phạm Thiên chăng?”.
Upaka nghĩ vậy rồi cất tiếng chào:
- “Chào bạn thân ái! Bạn đẹp quá, đẹp lạ lùng! – Chàng mỉm cười sung sướng tán thưởng rồi tiếp: Lục căn của bạn thanh tịnh và an ổn làm sao! Ồ! Không phải chỉ có thế, nói vậy chưa đúng. Nó làm cho sự an ổn và thanh tịnh cũng bị nhiếp phục. Hào quang sáu màu từ nơi bạn làm cho một vị Đại Phạm Thiên cũng phải ganh tị. Nước da của bạn chói ngời như mẹ vàng ròng. Chắc sức khoẻ của bạn dồi dào lắm? Chẳng hay bạn tên chi? Ở đâu? Xuất gia với ai? Đấng Đạo Sư của bạn là vị nào? Bạn tin tưởng vào giáo lý nào?
- Này Upaka! Vị Sa Môn trẻ tuổi dừng lại, gọi đúng đích danh chàng – Như Lai là kẽ đã vô nhiễm giữa trần cảnh, đã đoạn tận ác pháp, đã tịch tịnh, vô dục, đã bước ra khỏi mọi chấp trước ở bản thân và thế gian điên đảo kiến. Như Lai đã chiến thắng tam giới, chứng đạo quả Vô Thượng Bồ Đề thì còn ai là thầy của Như Lai? Giữa chúng chư Thiên, Phạm Thiên, Như Lai đứng một mình, là thầy của họ. Nay Như Lai đang đi đến vườn Nai ở Ba La Nại, quay bánh xe Pháp, giống tiếng trống Bất Tử cho chúng sanh tỉnh giấc mộng trường!
Upaka nghĩ rằng: “Vị đạo sĩ này ăn nói dễ nghe, dễ thương đến vậy? Chà, cái óc và cái lỗ tai nó được làm sao!”.
Bèn nói:
- Mong rằng sự việc sẽ như bạn nói. Bạn thật xứng đáng gọi là Bậc Chiến Thắng Bất Diệt!
- Này Upaka! Kẻ giải thoát ra khỏi mọi trói buộc trần gian xứng đáng được gọi như vậy. Kẻ mà ma quân, phiền não không còn tìm thấy dấu vết, xứng đáng được gọi như vậy. Các đấng Như Lai thường được danh xưng là Tối Thượng Tôn, Vô Năng Thắng, là bậc Chiến Thắng Bất Tử, Chiến Thắng Vô Tận, Vô Hạn Định!
Upaka gật đầu lia lịa:
- Thật đúng như vậy! Thật đúng như vậy! Thôi, này bạn của ta, chào bạn sức khoẻ!
Sau khi đối thoại với đức Đạo Sư, gật đầu lia lịa tán thán đức Đạo Sư: “Thôi, này bạn của ta, chào bạn sức khoẻ!”. Upaka không dừng lại nơi giáo pháp này, chàng bỏ đi. Bằng đường tắt, chàng đến ngôi lều cỏ nơi khu rừng Vankahara thân yêu của chàng. Lại khất thực, lại thiền định, lại tâm viên ý mã, lại đi về thanh tịnh, trang nghiêm, lại được người ta kính mộ coi như là bậc A La Hán.
Gia đình người thợ săn có cô con gái đào tơ, sen ngó. Nàng là pho tượng, là tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ của thợ trời, thợ nghiệp. Nàng có đôi mắt đen mướt và trong xanh lóng lánh; là sự mát dịu của uyên ương, của chú bồ câu. Có dáng đi đài các và uyển chuyển của thiên nga. Cái chân, cái tay, đôi má, cái cổ như trứng gà nõn và mũm mĩm như cây lựu nẩy mầm. Có nụ cười ướt sương và trinh bạch như nụ hoa đầu núi. Nàng đẹp đến nỗi ông thợ săn ít dám cho nàng đi đâu, sợ thanh niên trai tráng mọc đứng, mọc ngồi thành “cây si”, “bụi si tất thảy”. Nàng tên là Càpà.
Hôm kia, vì cả gia đình đi vắng nên Càpà phải ra để bát cho ông Đạo sĩ Mắt Đen, A La Hán trẻ tuổi đẹp trai. Điều linh nghiệm, chân lý của ông thợ săn đã xảy ra. Đạo sĩ Mắt Đen sững sờ, chết lặng, trái tim tự động bước ra ngoài mà không thèm hỏi chàng một tiếng. Đôi mắt đen của chàng Đạo sĩ thu bắt tức khắc, chuyên chú tinh cần vào đề mục “Thiền định hấp dẫn” này. Ôi! Cái đề mục này sao mà dễ “gom tâm” đến thế! Mỗi khi chàng niệm hơi thở, nhìn chót mũi, quán bộ xương khô, bát đất hay lỗ chân long thì nó như con cá quăng trên cạn, như con khỉ bị trói hai tay! Sao mà kỳ!
Căn nhà khép cửa đã lâu mà chàng còn “nhập đại định” ở đấy. Nhưng rốt cuộc lại cũng phải “xả thiền” chứ? Thế là chàng như người mất hồn, lững thững lê bước nặng nề về chốn “cô đơn thầm lặng”, ôm bình bát vật thực trên tay, bao giờ cũng nhiều món ăn thượng vị chàng ngồi xuống trên nệm cỏ, tâm thần còn choáng váng như uống tách rượu say, cái thần hồn như còn gởi ở cõi “mỹ sắc đại thiên tưởng”.
Upaka không ăn uống gì. Chàng ngồi trọn bảy ngày, bình bát chưa hề mở ra, kiên quyết khởi tâm nhất hướng, tối thượng tinh tấn vào đề mục: “Một là lấy cô gái người thợ săn làm vợ, hai là chết khô!”.
Sau bảy ngày công việc trở về, người thợ săn hỏi cô gái rượu:
- Này con than! Bậc A La Hán của chúng ta vẫn đều đặn đến khất thực đấy chứ?
- Thưa cha thân! Một lần thôi!
- Sao kỳ vậy hả? Ngài có đi hóa độ phương nào?
- Các bậc A La Hán thường nhập đại định đến bảy ngày. Chắc Đạo sĩ Mắt Đen của chúng ta như vậy!
Người thợ săn đi nhanh đến cửa lều của Upaka, nhìn qua nệm cỏ thấy một cái xác vô hồn, đang ôm bát trên ngực, đôi mắt lờ mờ mê dại.
- Ôi! Người thợ săn hớt hải la to – Ngài bị bệnh gì? Hay là ma nhập? Ối! Ma nhập rồi làng xóm ơi!
Upaka tỉnh lại, nhận ra người thợ săn, mệt mỏi xiêu ngả đứng dậy, bình bát rơi đổ tung tóe những món ăn thượng vị mốc meo. Rồi bất ngờ nhất, chàng ôm chầm người thợ săn khóc nức nở. Người thợ săn hoảng vía, gỡ ra không được, hỏi dồn dập:
- Sao vậy? Sao kỳ lạ vậy Ngài? Bệnh gì đây? Ma quỷ gì lạ đời?
- Ông ơi! Tôi chết mất thôi! – Upaka mở tiếng được tiếng mất rồi gắng gượng nói một hơi - Con gái ông đã lấy hồn tôi, đã làm cho tôi bị bệnh. Cái bệnh này còn vạn lần đau khổ hơn cái bệnh thân xác. Ông hãy cứu tôi. Tôi không phải là bậc A La Hán đâu. Tôi chỉ là kẻ tầm thường. Tôi đi tu là vì thấy yêu thương hình bóng các ông Đạo sĩ. Nay thì tôi thương yêu con gái ông hơn. Con gái ông đã chiến thắng tôi, là bậc “chiến thắng bất diệt”. Ông ơi! Ông hãy giải thoát cho tôi khỏi mối tương tư. Một là tôi chết khô, hai là ông cho tôi người con gái. Nàng là thiên thần, là nữ Đại Phạm Thiên! Nàng là người trên đầu trên cổ tôi, là thượng đế của tôi, là “đề mục thiền định cho tôi gom tâm tu hành. Ông ơi! Hãy cứu tôi!
- Nói như vậy thiệt là hết kinh hết sách, hết chữ nghĩa, hết tín ngưỡng. Người thợ săn bối rối, ngỡ ngàng trước sự việc như thế. Hồi lâu, nghĩ cũng cảm cảnh thương tình, ông ân cần dịu dàng nói:
- Thôi được rồi! Để tôi giải thoát mối đau khổ cho ngài. Thời tuổi trẻ, tôi cũng đã từng biết thương yêu nên tôi hiểu.
Nhìn bậc tu hành từ dung sắc chói sáng, thù thắng tuyệt mỹ như Phạm Thiên mà phút chốc trở nên tiều tụy; đôi mắt xanh đen biêng biếc thành đôi mắt xám bạc thẫn thờ, người thợ săn thông cảm xiết bao. Nhưng nghĩ có điều thực tế nan giải ông bèn hỏi:
- Nhưng mà này Ngài ạ! Khi cưới nhau rồi chẳng thể “một mái nhà tranh hai quả tim vàng” được đâu. Cổ thi dạy khác mà tân thi dạy khác. Tân thi nói rằng: Hạnh phúc thường cho ăn cơm với thịt và cá; bạn mà cho nó ăn rau, uống nước lã thì nó sẽ mang guốc, đội nón ra đi thôi! Ngài xuất gia từ nhỏ, ít quen được nắng mưa lam lũ, nghề chân, nghề tay, oằn lưng, trệ vai, đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Con gái tôi, tôi “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, quen mặc áo lụa Kàsi, quen đeo vàng hoa Pàtalim tóc mây, thân thể mượt mà quen ướp hương Chiên đàn Haricanadana tối thượng, da thịt tay chân óng ánh ngọc ngà như nụ Paduma mới nở. Thì Ngài có nghề ngỗng gì mà nuôi nó?
Upaka vừa thong hai chân xuống cuộc đời, chưa đi được bước nào đã vấp phải cục đá, ruột đau, im sững.
Người thợ săn gục gặc đầu rồi mở giọng ồ ồ:
- Làng trên xóm dưới hay ở đâu đó có hát hỏng ví von rằng:
“Thấy đóa hoa nở thì thương
Mang vô bình cắm sợ hương nhụy tàn
Áo cơm không đủ cho nàng
Muốn dua đĩa ngọc, bẽ bang tuổi xanh.”
Đấy! Đấy Ngài tính đi! Bụng làm dạ chịu. Tôi cũng thương Ngài lắm mà!
Sau một hồi suy nghĩ, Upaka nói:
- Ông đã thương thì thương tôi cho chót. Tôi xin thú thiệt. Tôi chẳng biết một nghề gì. Nhưng những khi ông bắn rơi một con chim, bẫy được một con thú… tôi có thể “làm nghề” lượm chúng, mang xuống chợ bán để đổi gạo, đổi thức ăn cho cả…gia đình ta!
Cầm lòng không đậu, người thợ săn tốt bụng và hay nói chữ, gật đầu, dẫn về nhà, cho y phục rồi đem đến trình diện cô con gái:
- Này con gái thân! Bắt đầu từ nay, cha nuôi bậc ẩn sĩ trong nhà, con chịu chứ?
Nàng Càpà đã đoán ra mọi sự nhưng giả vờ ngớ ngẩn hỏi:
- Bậc” ẩn sĩ” sao lại “ẩn” trong nhà có con gái?
- Không! Đây là bậc ẩn sĩ đã hết “ẩn sĩ” rồi!
- Ẩn sĩ hết ẩn sĩ, sao kỳ vậy?
- Nghĩa là bậc ẩn sĩ… bây giờ gọi là “ẩn tại gia” và ẩn tại gia…nghĩa là muốn nhận cha làm…nhạc gia!
Nàng Càpà ré lên bỏ chạy. Người thợ săn cất tiếng cười ha hả. Chàng Upaka đỏ bừng mặt, cúi gằm xuống.
Cũng là duyên cũng là Nợ, cũng là Nợ cũng là Duyên! Cái quả của sự gặp gỡ thương yêu nhau cho họ một đứa con. Khi có một đứa con thì sắc đẹp, tính nết nàng không còn như xưa nữa, và chàng thì nay núi này, mai núi khác, da đã chai sạn màu đồng hun. Làm nghề lượm thịt săn không đủ sống, phải phụ thêm nghề đốn củi, đốt than. Đôi khi chàng cũng mơ màng nghĩ đến đời sống nhàn cư thanh tịnh cũ. Đôi khi lại nhớ tưởng đến hình bóng của “Người bạn gặp trên đường, bậc Chiến Thắng Bất Diệt!”. Nàng Càpà cũng thương cám cảnh than dài. Nhưng chim đã liền cánh, bóng đã dính hình, ân nhân duyên phải đành thế. Một hôm con khóc, nàng vô tình hát rằng:
“Ầu ơ…ru con, con ngủ cho ngon,
Cha con ẩn sĩ…lượm thịt săn giữa rừng
Ầu ơ…ẩn sĩ rớt bát giửa chừng,
Vì con, vì vợ còng lưng tháng ngày”.
Nghe được, Upaka tức giận nói:
- Này nàng Càpà! Nàng nói ta là “ẩn sĩ lượm thịt săn”, “ẩn sĩ rớt bát”. Nàng tưởng ta không có nơi nương tựa. Ta không có còng lưng cúi đầu mãi ở trong cái nhà này đâu. Ta biết ta là kẻ ăn đậu ở nhờ, vô gia cư, vô nghề nghiệp. Ta biết thân phận của ta lắm. Ta có một người bạn, bậc “Đại Chiến Thắng Bất Diệt”. Ta sẽ đến nương tựa với bạn của ta.
- Em không nói thế đâu, chàng Mắt Đen của em! Em thấy chàng suốt ngày cúi dầu và còng lưng lượm thịt săn một cách vất vả, một cách khốn khổ đấy thôi.
- Nàng có cách nói hai nghĩa, nghĩa đằng đầu và nghĩa đằng đuôi. “Cúi đầu và còng lưng”. Chà, mai hay nhỉ? Ta nói cho nàng biết, ta đã sa đầm lầy khốn cùng. Ta thức ngộ rồi. Ta sẽ xuất gia trở lại. Ta sẽ đi theo bạn của ta, bậc Chiến Thắng Bất Diệt!
Chớ có tức giận em, chàng Mắt Đen của em. Có thể em đã dại dột, lỡ lời, xin chàng tha tội!
- Ta không có tha tội. Chí ta đã quyết. Ta sẽ rời khỏi Vankahara, nơi ta đã bị trói buộc và bị quyến rũ bởi sắc đẹp ma quái của nàng. Ích gì cái kỷ niệm đau xót này!
- Ôi! Chàng Mắt Đen của em! Hãy ở lại, chớ có đi! Em không dại dột thế nữa đâu. Em sẽ hầu hạ phục tùng chàng, là nô lệ của chàng.
- Không thể nữa đâu, nàng Càpà! Một phần mười sáu lời nói của nàng có thể làm cho trăm vạn nam nhân phải mê mệt. Nhưng ta thì không thể nữa đâu!
- Chàng Mắt Đen của em! Em đã đến nỗi nào. Em vẫn còn như cây Takkàrim nở hoa trên đầu núi. Những vòng hoa Patalim vẫn rực rỡ dung sắc hiến tặng chàng. Những chiếc áo lụa Kàsi tối thượng vẫn làm dịu mắt chàng. Tóc em, da thịt em vẫn ướp hương chiên đàn thơm lừng lựng.
Upaka bây giờ cất giọng chậm rãi:
- Nàng Càpà! Bây giờ nàng lại dung mồi sắc dẹp để bủa giăng cánh chim trời đấy phỏng? Dẫu nàng là dòng dõi thợ săn tuyệt xảo đến bảy đời, cánh chim kia chỉ một lần sa lưới!
Nàng Càpà chợt tức giận:
- Chàng Mắt Đen của em! Chàng nói thế mà nghe được sao? Em bủa giăng lưới hay tự chàng bước vào lưới?
Upaka nín lặng. Càpà lồng lộn lên:
- Này! Còn đứa con thì tính sao đây?
Upaka vẫn không nhượng bộ:
- Bậc trí bỏ vợ con, bỏ tài sản và quyến thuộc ra đi không ngoảnh lại!
- Thế thì giả dụ “tôi” đánh nó, “tôi” giết nó, “ông” cũng không thèm cứu ư?
- Nó là con của nàng, từ trong núm ruột của nàng mà ra, quẳng cho chó sói ăn là quyền của nàng. Tâm ta vẫn bất thối.
Nàng Càpà thở dài. Thế là hết rồi. Con hỗ đã trở lại rừng xưa. Chàng đã trở lại tâm đích thực của một ẫn sĩ. Sắc đẹp ta, nụ cười ta, vòng tay ta, cả con cái nữa, đã bất lực trước chàng. Chiếc gương đã vỡ, hình đã rời bóng, cánh đã lìa than. Nàng buồn bã cất giọng dịu dàng:
- Chàng Mắt Đen củ em! Chàng bỏ đi đành đoạn vậy ư?
- Từ khi biết nói đến nay, ta chưa hề nói dối.
- Vậy chàng đi đâu?
- Ta đã nói với nàng mấy lần, ta có một người bạn. Ta sẽ đến với bạn của ta, bậc Chiến Thắng Bất Diệt.
- Vị ấy ở đâu?
- Bạn của ta đang đi gióng tiếng trống bất tử ở vườn Nai, từ đó, bạn của ta sẽ bộ hành với đồ chúng, làng này sang làng khác để chuyển bánh xe pháp.
Im lặng khá lâu giữa hai người.
Nàng Càpà nói:
- Vậy thì khi chàng đến gặp vị ấy, hãy thay mặt em nhiễu quanh ba vòng về phía hữu, chàng đãnh lễ dùm em. Em tỏ lòng cung kính đối với vị ấy - Bậc Chiến Thắng Bất Tử ấy đã quyến dụ được chồng em, hơn em.
- Phải thế! Nói vậy là đúng đắn. Vì lợi ích cho cả hai ta, ta sẽ tỏ lòng cung kính và tri ân bậc Vô Thượng ấy.
Đức Đạo Sư, hôm ấy ở Sàvatthi, trước khi vào hương phòng, nói với người thị giả:
- Này Tỳ Kheo! Khi nào có ai đến hỏi: “Vị Chiến Thắng Bất Diệt, bạn của ta, giờ ở đâu? Thì hãy đưa người ấy vào gặp Như Lai”.
Vẫn còn trong y phục của người thợ săn, Upaka sau rất nhiều do tuần đường đất, theo dấu chân đức Đạo Sư lần đến Sàvatthi, tìm ra cửa tịnh xá, cất giọng oang oang:
- Này ông Đạo sĩ! Vị Chiến Thắng Bất Diệt bạn của ta, giờ ở đâu?
Đức Đạo Sư chờ đợi người ấy, chờ đợi đã lâu, không phải chỉ sáng nay, nhờ thiên nhãn, mà chờ đợi từ ngày giác ngộ dưới cội Bồ Đề chẳng dùng thần thông, chỉ đi bộ về vườn Nai cốt gặp người ấy để gieo một hạt giống. Hạt giống ấy hôm nay đã nẩy mầm, nứt ra, lớn rất nhanh, và chờ lúc trổ quả; Upaka xuất gia, thọ đại giới với đức Thế Tôn, và dễ dàng chứng đạo quả Bất Lai không một gắng sức nào.
Cuối đời, mệnh chung sinh vào cõi trời Aviha thanh tịnh, đắc quả A La Hán luôn tại đấy.
Còn nàng Càpà không bao lâu sau, gởi con trai cho ông ngoại, theo chân Upaka xuất gia với Trưởng lão Ni Gotamì, đắc quả A La Hán.
Chàng và nàng gặp gỡ nhau, yêu nhau, sanh con, giận nhau, cãi nhau, xa nhau rồi lại gặp nhau nơi cõi Vô Sanh Bất Tử. Hi hữu thay!
Cho nên có thơ rằng:
“Tích xưa chuyện cũ rành rành,
Có khi gương vỡ lại lành hơn xưa”.